Chuyên mục Tài liệu • Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam https://hoitamlytrilieu.vn/chuyen-muc/tai-lieu Vietnam Psychotherapy Association Fri, 01 Apr 2022 03:58:28 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.6.2 https://cdn.hoitamlytrilieu.vn/uploads/2020/10/cropped-Logo-1-1-32x32.png Chuyên mục Tài liệu • Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam https://hoitamlytrilieu.vn/chuyen-muc/tai-lieu 32 32 Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ trị liệu tâm lý tại Việt Nam https://hoitamlytrilieu.vn/nghien-cuu-thuc-trang-nguon-nhan-luc-cung-cap-dich-vu-tri-lieu-tam-ly-tai-viet-nam-1684.html Thu, 31 Mar 2022 03:49:00 +0000 https://hoitamlytrilieu.vn/?p=1684 Để có cơ sở xây dựng chính sách, kế hoạch phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ tâm lý trị liệu tại Việt Nam, hướng tới việc mở mã nghề trị liệu tâm lý, Bộ Y tế triển khai nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ tâm lý trị liệu, cả hệ thống công lập và ngoài công lập.

Bài viết Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ trị liệu tâm lý tại Việt Nam đã xuất bản lần đầu vào ngày Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam.

]]>
VnPA_CV-Nghien-cuu-Thuc-trang-Nguon-nhan-luc-TLTLTải xuống

Bài viết Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ trị liệu tâm lý tại Việt Nam đã xuất bản lần đầu vào ngày Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam.

]]>
1684
Chuyên đề: Rối Loạn Giấc Ngủ https://hoitamlytrilieu.vn/chuyen-de-roi-loan-giac-ngu-1351.html Mon, 19 Jul 2021 07:21:21 +0000 https://hoitamlytrilieu.vn/?p=1351 Nghiên cứu về giấc ngủ; các rối loạn giấc ngủ

Bài viết Chuyên đề: Rối Loạn Giấc Ngủ đã xuất bản lần đầu vào ngày Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam.

]]>
Biên soạn và trình bày: PGS.TS.BS. Võ Văn Bản – Chủ tịch Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam

Bài viết Chuyên đề: Rối Loạn Giấc Ngủ đã xuất bản lần đầu vào ngày Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam.

]]>
1351
Quản lý và giảm căng thẳng https://hoitamlytrilieu.vn/quan-ly-va-giam-cang-thang-1334.html Fri, 16 Jul 2021 02:13:00 +0000 https://hoitamlytrilieu.vn/?p=1334 Quản lý và giảm căng thẳng
Tài liệu gốc của Mental Health Foundation.
Bản tiếng Việt của Trung tâm Tâm lý Welink.
Dịch bởi Ngô Minh Uy

Bài viết Quản lý và giảm căng thẳng đã xuất bản lần đầu vào ngày Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam.

]]>
Tài liệu gốc của Mental Health Foundation.
Bản tiếng Việt của Trung tâm Tâm lý Welink.
Dịch bởi Ngô Minh Uy

Bài viết Quản lý và giảm căng thẳng đã xuất bản lần đầu vào ngày Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam.

]]>
1334
Cẩm nang Chăm sóc Sức khỏe Tâm thần trong đại dịch COVID 19 https://hoitamlytrilieu.vn/cam-nang-cham-soc-suc-khoe-tam-than-trong-dai-dich-covid-19-1324.html Tue, 13 Jul 2021 05:12:25 +0000 https://hoitamlytrilieu.vn/?p=1324 Cẩm nang Chăm sóc Sức khỏe Tâm thần trong đại dịch COVID 19

Dựa theo tài liệu
“COVID-19 Mental Care Manual, Keio University edition”

Bài viết Cẩm nang Chăm sóc Sức khỏe Tâm thần trong đại dịch COVID 19 đã xuất bản lần đầu vào ngày Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam.

]]>
Dựa theo tài liệu “COVID-19 Mental Care Manual, Keio University edition”.

Nguồn: Bệnh viện Tâm thần thành phố Đà Nẵng

Bài viết Cẩm nang Chăm sóc Sức khỏe Tâm thần trong đại dịch COVID 19 đã xuất bản lần đầu vào ngày Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam.

]]>
1324
Rối loạn tăng động – giảm chú ý https://hoitamlytrilieu.vn/roi-loan-tang-dong-giam-chu-y-628.html Sat, 17 Oct 2020 06:41:39 +0000 https://beta.hoitamlytrilieu.vn/?p=628 Rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention-Deficit/Hyperactivity Disorder) là một trong những rối loạn phát triển tâm thần kinh ở trẻ em.

Bài viết Rối loạn tăng động – giảm chú ý đã xuất bản lần đầu vào ngày Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam.

]]>
Đề tài được thực hiện bởi
PGS.TS.VÕ VĂN BẢN
BỆNH VIỆN VIỆT PHÁP HÀ NỘI

1/ Khái niệm về Tăng động giảm chú ý:

Rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention-Deficit/Hyperactivity Disorder) là một trong những rối loạn phát triển tâm thần kinh ở trẻ em. Rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) dùng để mô tả những trẻ thường xuyên có các triệu chứng giảm chú ý, tăng hoạt động mang tính xung động không phù hợp lứa tuổi, những triệu chứng này ảnh hưởng đến các hoạt động chủ yếu trong đời sống hằng ngày, thường thể hiện ít nhất trong 2 môi trường (ở nhà, ở trường, khi làm việc, lúc vui chơi),

Chẩn đoán ADHD không khó, nhưng để điều trị hiệu quả không dễ và rất cần sự quan tâm, kiên nhẫn của cha mẹ cùng với sự phối hợp các phương pháp điều trị hợp lý của nhà trị liệu,

Khoảng 3-5% ở tuổi đến trường bị ADHD. Rối loạn ADHD giảm cùng với sự lớn lên của trẻ. Theo Costello và cộng sự (2003), tỷ lệ 2,2% ở tuổi 9; 1,4% ở tuổi 12 và 0,3% ở tuổi 16. Trẻ trai gặp nhiều hơn trẻ gái, tỷ lệ Nam/Nữ trong số các trẻ đến khám bệnh là từ 6/1 đến 9/1; ở trong cộng đồng là 2/1 đến 3/1.

Năm 1845, Heinrich Hoffmann, một bác sĩ thần kinh người Đức đã viết trong một cuốn sách về tăng động ở trẻ em và đây là cuốn sách được biết đầu tiên về trẻ tăng động.

Các triệu chứng ADHD được mô tả như là một rối loạn vào năm 1902 bởi một thầy thuốc người Anh tên là George Still, ông cho rằng các triệu chứng này là do kém “tự kềm chế” và “ kiểm soát đạo đức bị thiếu” được đăng  trong tạp chí Lancet.

Khoảng 50 năm trước người ta cho rằng nguyên nhân của ADHD là do não bị huỷ hoại. Tuy nhiên những nghiên cứu sau này cho thấy rằng chỉ có 5% trẻ có ADHD là có những tổn thương thần kinh hay động kinh. Vì thế tổn thương não không có ý nghĩa trong hầu hết trẻ em có rối loạn này (Barkley,1990).

2/ Bệnh nguyên và bệnh sinh ADHD:

Nhiều người cho rằng ADHD là do rối loạn chất dẫn truyền thần kinh (Neurotransmitters), trong đó nhấn mạnh đến sự thiếu hụt của Dopamine và Norepinephrine ở các vùng não có trách nhiệm điều chỉnh hành vi và sự chú ý.

Nhiều nghiên cứu nhấn mạnh đến yếu tố di truyền: nếu một trẻ trong cặp song sinh cùng trứng bị ADHD thì nguy cơ trẻ còn lại bị ADHD từ 75% đến 97%. Nghiên cứu về bộ gène SNP (single-nucleotide polymorphism) trong 5 rối loạn tâm thần (ADHD, Tâm thần phân liệt, Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, Trầm cảm nặng, Autism) (2).

ADHD liên quan đến cấu trúc của não bộ, chứ không đơn thuần chỉ là rối loạn hành vi. Kết quả nghiên cứu của Robert Preidt và cs về hình ảnh MRI trên 1.700 người bị ADHD và 1.500 người bình thường tuổi từ 4 – 63 đã cho thấy 5 vùng não ở người ADHD nhỏ hơn binh thường: hạnh nhân, hồi hải mã và 3 vùng não trong thể vân (nhân đuôi, nhân bèo sẫm và nhân Accumbens) tham gia vào hệ thống phần thưởng của não và trong quá trình xử lý dopamine, một chất dẫn truyền thần kinh giúp kiểm soát động lực và cảm xúc (3).

Ngoài ra các yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của ADHD: Tổn thương thần kinh xảy ra trước hoặc sau khi sinh, Hội chứng rượu bào thai, chế độ ăn uống, suy dinh dưỡng, vai trò gia đinh và xã hội,..

3/ Chẩn đoán ADHD:

     Trẻ bị ADHD thường có hai nhóm triệu chứng, đó là các triệu chứng về tăng đông và giảm chú ý, những triệu chứng này phải thường xuyên xảy ra hoặc liên tục xảy ra, ảnh hưởng đến hoạt động chủ yếu trong đời sống hàng ngày.

3.1. Các triệu chứng về tăng động:

  • Luôn cựa quậy chân tay hay vặn mình khi ngồi,
  • Thường rời bỏ chỗ ngồi trong lớp một cách vô tổ chức,
  • Thường chạy nhảy hay leo trèo quá mức,
  • Thường không thể chơi hay hòa mình vào những hoạt động giải trí một   cách nhẹ nhàng,
  • Thường luôn di chuyển hoặc hành động như thể đang lái môtô,
  • Nói quá nhiều,
  • Thường xuyên bật ra câu trả lời khi chưa nghe hết câu hỏi,
  • Thiếu tính kiên nhẫn, gặp khó khăn khi phải chờ đợi lâu,
  • Hay quấy rầy hoặc làm gián đoạn công việc của người khác.

3.2. Các triệu chứng về giảm chú ý:

  • Không chú ý đến các chi tiết,
  • Khó duy trì sự tập trung,
  • Không lắng nghe,
  • Không tuân thủ sự hướng dẫn,
  • Gặp khó khăn trong việc tổ chức, sắp xếp các hoạt động,
  • Né tránh các công việc đòi hỏi sự cố gắng trong thời gian dài
  • Đánh mất các vật dụng cần thiết để làm việc,
  • Dễ sao lãng,
  • Hay quên các công việc hàng ngày.

3.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán ADHD theo DSM-V:

  • Tuổi khởi phát: Theo DSM-V, tuổi khởi phát là trước 7 tuổi,
  • Triệu chứng xuất hiện theo lứa tuổi:
  1. Có 5 hoặc nhiều hơn 5 triệu chứng cần thiết khi trẻ trên  17 tuổi
  2. Có 6 hoặc nhiều hơn 6 triệu chứng khi trẻ 16 tuổi hoặc nhỏ tuổi hơn
  • Các triệu chứng xuất hiện ít nhất trong vòng 6 tháng và xuất hiện ít nhất trong 2 môi trường,
  • Các triệu chứng phải ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày

3.4. Các thể ADHD: Có ba thể ADHD:

  • Thể giảm chú ý: đòi hỏi trẻ phải hội đủ đủ ≥6/9 triệu chứng. Những triệu chứng thuộc dạng này phải xuất hiện trong vòng 6 tháng. Đáp ứng tiêu chuẩn giảm chú ý nhưng không phải tăng vận động – xung động
  • Thể tăng vận động – xung động: đòi hỏi trẻ phải hội đủ ≥6/9 triệu chứng. Những triệu chứng thuộc dạng này phải xuất hiện trong vòng 6 tháng. Đáp ứng tiêu chuẩn tăng vận động – xung động nhưng không phải giảm chú ý
  • Thể kết hợp: trẻ phải hội đủ tối thiểu 6 tiêu chuẩn của nhóm 1 và 6 tiêu chuẩn của nhóm 2 nêu trên và những triệu chứng thuộc dạng kết hợp phải xuất hiện trong vòng 6 tháng.

Mức độ nặng nhẹ (Severity levels):

  • Nhẹ (mild):                        đạt 5 tiêu chuẩn 
  • Vừa phải (moderate):         đạt 6 – 7 tiêu chuẩn
  • Nghiêm trọng (severe):       đạt 7 tiêu chuẩn trở lên.

4/ Các phương pháp can thiệp:

4.1. Điều trị bằng thuốc:

  • Thuốc kích thích tâm thần (Psychostimulants) được xem là thuốc đặc trị cho ADHD với kết quả 70-90% đáp ứng  tốt với thuốc. Ở Viêt Nam hiện có Concerta (Methylphenidate). Các thuốc này có tác dụng làm gia tăng cả hai chất dẫn truyền thần kinh là dopamine và norepinephrine, có khả năng cải thiện kiểm soát xung động và tăng hoạt động, cũng như chú ý.
  • Thuốc an thần kinh: Risperdal, Aripirazole (Aritero)
  • Các thuốc dòng Norepinephrine: Atomoxetine (Strattera)
  • Các thuốc chống trầm cảm: Amitrityline; Zoloft;
  • Các thuốc điều trị cao huyết áp: Clonidine & Guanfacine
    1. Các phương pháp can thiệp tâm lý xã hội
  • Giáo dục cha mẹ về chứng ADHD
  • Huấn luyện cho cha mẹ về quản lý trẻ:
    1. Trẻ em (<11 tuổi 65-75%  đáp ứng)
    2. Thanh thiếu niên (25-30% thay đổi rõ rệt)
  • Trị liệu gia đình cho trẻ vị thành niên: Tập huấn kỹ năng giải quyết vấn đề và giao tiếp (30% có sự thay đổi)
  • Trị liệu hành vi nhận thức,
  • Đào tạo cho giáo viên về ADHD,
  • Tập huấn cho giáo viên về cách quản lý hành vi trong lớp,
  • Các dịch vụ giáo dục đặc biệt,
  • Rèn luyện thể chất,
  • Thành lâp các nhóm hỗ trợ trẻ và cha mẹ,
    1. Các phương pháp can thiệp khác:

Điều trị bằng phản hồi sinh học thần kinh (Neurofeedback) là phương pháp chữa trị ADHD có hiệu quả, một lựa chọn thay thế an toàn, không xâm lấn trong điều trị ADHD ở trẻ em và thanh thiếu niên. Tháng 11/2013, Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ đã chấp thuận neurofeedback là lựa chọn điều trị cấp độ 1 hoặc hỗ trợ tốt nhất cho trẻ ADHD (2). Trong một buổi trị liệu neurofeedback, cảm biến điện não đồ được đặt trên da đầu. Hoạt động sóng não cụ thể sau đó được phát hiện, khuếch đại và ghi nhận lại. Thông tin được phản hồi ngay lập tức lên màn hình cho các nhà triệu và bệnh nhân. Nhà trị liệu thông báo cho bệnh nhân những gì họ đang quan sát và huấn luyện họ cách kiểm soát hoạt động của não để những hoạt động này đạt đến phạm vi mong muốn. Với sự giúp đỡ của một chương trình trò chơi video, trẻ em học cách duy trì hoạt động giảm sóng delta và tăng sóng beta, hoặc các trò chơi sẽ ngừng. Quá trình này được xem như “tập thể dục cho não” và làm tăng sự tập trung và chú ý của mình.

5/ Kết luận:

Tỷ lệ ADHD ở trẻ tuổi đi học rất cao, trong đó trẻ trai gặp nhiều hơn trẻ gái với những dấu hiệu giảm chú ý và tăng động gây ảnh hưởng lớn đến mọi hoạt động hàng ngày. Chẩn đoán ADHD không khó, nhưng để có kết quả điều trị tốt đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa gia đình, nhà trường và nhà trị liệu với sự phối hợp các liệu pháp điều trị hợp lý. Trẻ bị ADHD, nếu được phát hiện sớm và can thiệp kịp thời thường các dấu hiệu tăng động, giảm chú ý sẽ được cải thiện tốt, giúp trẻ hòa nhập tốt trong học tập và sinh hoạt.

Tài liệu tham khảo:

  1. Kristin A. DeName. Neurofeedback Therapy an Effective Non-Drug Treatment for ADHD. July 8, 2018. Psych Central.
  2. DSM Fifth Edition. DSM-5.  American Psychiatric Association. American Psychiatric Publishing. CBS Publishers & Distributors Pvt Ltd. 2013. Pg 59-66.,
  3. Robert Preidt.  Imaging Study Confirms Brain Differences in People With ADHD. HealthDay, February 16, 2017.
  4. Barkley, R.A. Issues in the Diagnosis of Attention Deficit Hyperactivity Disorder in Children. Journal of Brain and Development. 2003, 25, 77-83

Bài viết Rối loạn tăng động – giảm chú ý đã xuất bản lần đầu vào ngày Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam.

]]>
628
Tìm hiểu các yếu tố văn hóa liên quan đến trầm cảm trên nhóm sinh viên du học ở nước ngoài https://hoitamlytrilieu.vn/tim-hieu-cac-yeu-to-van-hoa-lien-quan-den-tram-cam-tren-nhom-du-hoc-sinh-nuoc-ngoai-616.html Sat, 17 Oct 2020 06:20:20 +0000 https://beta.hoitamlytrilieu.vn/?p=616 Trầm cảm là một bệnh lý thường gặp, theo WHO (5), ước tính khoảng 350 triệu người bị trầm cảm trên toàn thế giới, tăng hơn 18% từ năm 2005 đến năm 2015.

Bài viết Tìm hiểu các yếu tố văn hóa liên quan đến trầm cảm trên nhóm sinh viên du học ở nước ngoài đã xuất bản lần đầu vào ngày Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam.

]]>

Đề tài được thực hiện bởi:

PGS.TS. Võ Văn Bản
BỆNH VIỆN VIỆT PHÁP HÀ NỘI

 1/ ĐẶT VẤN ĐỀ:

Trầm cảm là một bệnh lý thường gặp, theo WHO (5), ước tính khoảng 350 triệu người bị trầm cảm trên toàn thế giới, tăng hơn 18% từ năm 2005 đến năm 2015, chính vì vậy chủ đề chiến dịch năm 2017 của WHO là trầm cảm, với khẩu hiệu “Trầm cảm: chúng ta hãy nói về nó” (Dépression: parlons-en). Theo Kessler RC và Walter EE (1), nghiên cứu trên 1.769 bệnh nhân tuổi từ 15 – 24, nhận thấy tỷ lệ trầm cảm nặng (Major Depression – MD) là 5,8%, trầm cảm nhẹ (Minor Depression – mD) là 2,1% mắc trong 1 tháng, còn tỷ lệ mắc cả đời là 15.3% (MD) và 9.9% (mD). Rất nhiều yếu tố nguy cơ liên quan đến trầm cảm, đặc biệt ở lứa tuổi vị thành niên, khi nhân cách chưa hoàn thiện nên gặp khó khăn trong việc thích nghi và hòa nhập môi trường sống và học tập, yếu tố gia đình (di truyền và giáo dục), yếu tố tâm lý (nhân cách, sang chấn tâm lý), yếu tố tập nhiễm các thói quen sinh hoạt không lành mạnh (hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, thậm chí các chất gây nghiện),…

Theo Maureen Mayhew (4), các yếu tố văn hoá chia làm hai nhóm, nhóm dễ nhận biết (ngôn ngữ, ăn mặc, âm nhạc, văn học, lễ hội,..) và nhóm khó nhận biết (như niềm tin, giá trị, kỹ năng giao tiếp, kiểm soát cảm xúc và hoạt động thể chất, sự cạnh tranh và sự tương tác, sắc tộc,..), các yếu tố văn hóa nhóm khó nhận biết ảnh hưởng đến sức khỏe, đặc biệt sức khỏe tâm thần nhiều hơn nhóm dễ nhận biết. Vitor Pordeus (6), ảnh hưởng của yếu tố văn hóa lên trầm cảm còn có sự khác biệt giữa nền văn hoá cá thể và nền văn hoá tập thể. Một nền văn hoá cá thể được đặc trưng bởi cá nhân là trung tâm. Trong nền văn hóa tập thể coi trọng đến tương tác gia đình và nhóm hơn là từng cá thể. Người dân từ các nền văn hoá tập thể có xu hướng tương tác tập thể nhiều hơn, và họ cảm thấy luôn được sự hỗ trợ và ít cô đơn hơn, đây là lý do tại sao tần suất trầm cảm có thể cao hơn ở các nền văn hoá cá thể.

Ảnh hưởng của văn hóa đến trầm cảm đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu, như trong nghiên cứu của Iwata N., Buka S. (2) về hiện tượng xuyên văn hóa và yếu tố dân tộc trong các sinh viên bị rối loạn trầm cảm ở Đông Á, Bắc và Nam Mỹ. các tác giả đã chỉ ra rằng: 1) Biểu hiện của các triệu chứng trầm cảm dường như tương tự giữa người Mỹ gốc Anglo và người Argentina; 2) Người Mỹ bản địa có khuynh hướng biểu hiện trầm cảm bằng các triệu chứng cơ thể hơn các triệu chứng cảm xúc; 3) Những ảnh hưởng tích cực có thể được tăng cường trong văn hoá Bắc Mỹ, trong khi bị ức chế trong văn hoá Nhật Bản.

Với đề tài:”Tìm hiểu các yếu tố văn hóa liên quan đến trầm cảm trên nhóm sinh viên du học ở nước ngoài”, chúng tôi phân tích ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa – xã hội trên nhóm sinh viên du học nước ngoài liên quan đến rối loạn trầm cảm, để từ đó đưa ra những khuyến cáo cho các bậc cha mẹ và các sinh viên chuẩn bị tốt về mặt tâm lý để phát hiện và điều trị kịp thời.

2/ ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

2.1. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu gồm 17 bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn trầm cảm, có 13 bị trầm cảm nặng, 03 trầm cảm vừa, 01 trầm cảm nhẹ, tất cả đều đã và đang du học ở nước ngoài, trong đó học ở Mỹ có 10 bạn, học ở Anh 05 bạn, ở CHLB Đức 01 bạn và ở CH Pháp 01 bạn. Trong 17 bệnh nhân có 8 bạn nam, 9 nữ, tuổi trung bình: 22,94 ± 2,21.

Tất cả đều được chẩn đoán rối loạn trầm cảm và được điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Việt Pháp Hà Nội bằng thuốc chống trầm cảm.

2.2. Phương pháp nghiên cứu:

Mẫu hồ sơ bệnh án nghiên cứu theo mẫu hồ sơ của bệnh viện Việt Pháp Hà Nội,

Phân tích chân dung tâm lý cá nhân và tâm lý gia đình dựa vào bảng đánh giá của bản thân bệnh nhân và bố mẹ.

Các test tâm lý: BDI và Zung

Hồ sơ tâm lý được nghiên cứu theo phương pháp nghiên cứu từng trường hợp riêng biệt (case study),

3/ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:

3.1. Mức độ trầm cảm:

Bảng 1: Mức độ rối loạn trầm cảm ở nhóm nghiên cứu

GIỚI TÍNH

RLTC NẶNG

RLTC VỪA

RLTC NHẸ

Tổng cộng

Nam

6

2

0

8

Nữ

7

1

1

9

Tổng cộng

13

3

1

17

Tỷ lệ mắc trầm cảm gặp ở nữ và nam học sinh du học ở nước ngoài gần như nhau. Mức độ rối loạn trầm cảm nặng chiếm tỷ lệ cao 13/17 (76,47%),

3.2. Thời gian mắc bệnh và điều trị:

Bảng 2: Thời gian mắc bệnh và điều trị ở nhóm nghiên cứu

Thời gian khởi phát bệnh (TGKP)

Nam (8)

Nữ (9)

Tổng cộng (17)

Thời gian khởi phát ≤1 năm

4/8

5/9

9/17

Thời gian khởi phát 2 – 3 năm

3/8

3/9

6/17

Thời gian khởi phát > 4 năm

1/8

1/9

2/17

TGKP trước khi đi học

1/8

2/9

3/17

TGKP trước trong thời gian học

7/8

7/9

14/17

Chưa điều trị khi ở nước ngoài

6/8

7/9

13/17

Đã điều trị trước khi về nước

2/8

2/9

4/17

Gia đình phải đưa về nước điều trị

5/8

6/9

11/17

Buộc phải về nước vì lý do pháp lý

1/8

0/9

1/17

Thời gian bệnh khởi phát ≤ 1 năm là 9/17, 2 – 3 năm là 6/17 và > 4 năm là 2/17, có 14 trường hợp (82,35%) trầm cảm xuất hiện trong thời gian đang học ở nước ngoài, chỉ có 3 trường hợp (17,65%) mắc bệnh trước khi đi học và đa phần bệnh nhân không được điều trị tại nơi học 13/17 (76,47%), trừ những trường hợp đặc biệt do nhà trường chỉ định đi điều trị mới phải đi khám và điều trị 4/17 (23,53%), 01 bệnh nhân nam đã vi phạm nội quy của trường, nên buộc phải thôi học và về nước điều trị, còn 11 trường hợp khác (5 nam và 6 nữ) gia đình phải đưa về nước điều trị.

3.3. Ảnh hưởng các yếu tố văn hóa của bản thân đối với trầm cảm:

Bảng 3: Các yếu tố văn hóa của bản thân ảnh hưởng đến trầm cảm

Các yếu tố liên quan

Ảnh hưởng

Không ảnh hưởng

1

Áp lực học tập

10/17 (58,82%)

07/17

2

Sống lệ thuộc gia đình, ko tự lập

12/17 (70,59%)

05/17

3

Khả năng ngoại ngữ

02/17

15/17 (88,23%)

4

Khó khăn kinh tế trong cuộc sống

01/17

16/17 (94,11%)

5

Khó thích nghi trong cuộc sống

13/17 (76,47%)

04/17

6

Khó khăn giao tiếp với cộng đồng NN

16/17 (94,11%)

01/17

7

Khó khăn giao tiếp với cộng đồng VN

10/17 (58,82%)

07/17

8

Bị đối xử bất công so với người bản xứ

03/17

14/17 (82,35%)

9

Sinh hoạt không theo nhịp ngày đêm

16/17 (94,11%)

01/17

10

Ăn uống thất thường, ít tập luyện,..

16/17 (94,11%)

01/17

11

Nỗi nhớ nhà (home sick/nostalgie)

17/17 (100%)

0

Các yếu tố văn hóa bản thân ảnh hưởng rất lớn đến trầm cảm, như nỗi nhớ nhà (100%), khó khăn trong giao tiếp với cộng đồng người nước ngoài (94,11%), thức ngủ không theo nhịp ngày đêm và ăn uống thất thường, ít vận động (94,11%), khó thích nghi cuộc sống mới (76,47%), áp lực học tập (58,82%),… Bên cạnh đó những yếu tố ít ảnh hưởng đến trầm cảm, như phân biệt đối xử với người bản địa (17,65%), khó khăn về ngoại ngữ (11,76%), khó khăn về kinh tế (5,88%),..

 3.4. Ảnh hưởng các yếu tố văn hóa của bố mẹ đối với trầm cảm:

Bảng 4: Các yếu tố văn hóa của bố mẹ ảnh hưởng đến trầm cảm của con

Các yếu tố liên quan

Ảnh hưởng

Không ảnh hưởng

1

Bố mẹ có gây áp lực học tập cho con?

10/17  (58,82%)

07/17

2

Bố mẹ có chiều chuộng con?

17/17  (100%)

0

3

Có yếu tố stress trong gia đình?

12/17  (70,59%)

05/17

4

Bố mẹ đánh giá con bị TC có liên quan đến yếu tố giáo dục của gia đình ko?

13/17  (76,47%)

04/17

5

Gia đình có hay chia sẻ với con ko?

10/17  (58,82%)

07/17

6

Bố mẹ có tôn trọng quyền riêng tư con?

09/17

08/17

7

TC ảnh hưởng đến học tập của con?

16/17

01/17

Kết quả nghiên cứu cho thấy bố mẹ chiều chuộng con cái (100%), yếu tố giáo dục của bố mẹ ảnh hưởng đến trầm cảm (76,47%), yếu tố stress trong gia đình (70,59%). Bố mẹ đánh giá trầm cảm ảnh hưởng đến việc học tập của con (94,11%).

4/ BÀN LUẬN:

4.1. Mức độ rối loạn trầm cảm ở nhóm nghiên cứu:

Trong nhóm sinh viên học ở nước ngoài bi trầm cảm về nước điều trị có 8 nam và 9 nữ, điều này phản ánh nguy cơ mắc trầm cảm của du học sinh gần như nhau giữa hai giới (tuy nhiên vì nhóm nghiên cứu quá bé, cần nghiên cứu thêm). Ngoài ra nếu bị trầm cảm thường gặp ở thể nặng với tỷ lệ cao (76,47%), có thể do không được phát hiện và điều trị trầm cảm kịp thời, vì các cháu sống tự lập xa gia đình, ngại đi khám bệnh và vì sự hiểu biết về rối loạn trầm cảm, cũng như các phương pháp trị liệu chưa cao. Điều này phù hợp với nghiên cứu của Karasz A (3), nhận thấy nhóm người Nam Á bị trầm cảm ít tìm đến các phương pháp điều trị khoa học hơn nhóm bệnh nhân người châu Âu.

4.2. Thời gian mắc bệnh và ý thức điều trị của nhóm nghiên cứu:

Trầm cảm xuất hiện trong thời gian đang học ở nước ngoài có 14 trường hợp (82,35%), chỉ có 3 trường hợp (17,65%) mắc bệnh trước khi đi học. Tỷ lệ trầm cảm không được điều trị kịp thời (76,47%), kết quả này phù hợp với thông báo của WHO (5), ngay cả những nước phát triển thì tỷ lệ trầm cảm được điều trị chỉ đạt mức 50%. Chính trầm cảm ảnh hưởng đến học tập của các cháu và kinh tế gia đình, cụ thể 4/17 (23,53%) cháu buộc phải nghỉ học đi điều trị tại bệnh viện nơi đang theo học và 11/17 cháu (64,70%) gia đình phải đưa về Việt Nam điều trị.

4.3. Các yếu tố văn hóa của bản thân ảnh hưởng đến trầm cảm ở nhóm nghiên cứu:

Những yếu tố văn hóa ảnh hưởng đến trầm cảm, như nỗi nhớ nhà (100%), khó khăn trong giao tiếp với cộng đồng người nước ngoài (94,11%), thức ngủ không theo nhịp ngày đêm và ăn uống thất thường (94,11%),  ít vận động (94,11%), khó thích nghi cuộc sống mới (76,47%), áp lực học tập (58,82%),… Bên cạnh đó những yếu tố ít ảnh hưởng đến trầm cảm, như phân biệt đối xử với người bản địa (17,65%), khó khăn về ngoại ngữ (11,76%), khó khăn về kinh tế (5,88%),..

Điều này cũng phù hợp với nhận xét của Maureen Mayhew (4), những yếu tố văn hóa khó nhận biết ảnh hưởng rất lớn lên sức khỏe tâm thần, như kỹ năng giao tiếp, sự thích nghi môi trường sống, kiểm soát cảm xúc và hoạt động thể chất,.. Còn nhóm yếu tố văn hóa dễ nhận biết như ăn mặc, ngoại ngữ, đời sống âm nhạc,.. ít ảnh hưởng lên sức khỏe tâm thần (xem minh họa trong hình dưới).

4.4. Các yếu tố văn hóa của bố mẹ ảnh hưởng đến trầm cảm của con:

Kết quả nghiên cứu cho thấy bố mẹ chiều chuộng con cái (100%), yếu tố giáo dục của bố mẹ ảnh hưởng đến trầm cảm (76,47%), yếu tố stress trong gia đình (70,59%), chính những yếu tố này đã ảnh hưởng đến khả năng tự lập và thích nghi của trẻ, từ đó trẻ có nguy cơ dễ bị trầm cảm hơn. Bố mẹ đánh giá trầm cảm ảnh hưởng đến việc học tập của con (94,11%),.. Điều này phù hợp với nghiên cứu của Vitor Pordeus (7) về ảnh hưởng của nền văn hóa cá thể lên trầm cảm nhiều hơn văn hóa tập thể. Trong nghiên cứu của chúng tôi, các sinh viên khi ở trong nước chịu ảnh hưởng của nền văn hóa tập thể được sự chia sẻ của gia đình, bạn bè, khi sang học ở nước ngoài sẽ phải tự mình chịu đựng mọi căng thẳng ở môi trường mới, gặp khó khăn khi giao tiếp chia sẽ với người nước ngoài cũng như người Việt Nam và phải thích ứng với nền văn hóa mới mang tính cá thể nhiều hơn tập thể, nên dễ bị mắc trầm cảm.

5/ KẾT LUẬN:

Tỷ lệ trầm cảm ở nhóm nam và nữ sinh viên du học nước ngoài gần như nhau, trong đó tỷ lệ mắc trầm cảm trước khi đi học (17,65%) thấp hơn khi sang học ở nước ngoài rất cao (82,35%). Mức độ trầm cảm chủ yếu là nặng, không được điều trị ở nước ngoài (76,47%). Việc học tập của các cháu bị ảnh hưởng bởi trầm cảm là rất lớn (94,11%) và nhiều trường hợp phải nghỉ học về nước để điều trị (64,70%).

Những yếu tố văn hóa của bản thân ảnh hưởng rất lớn đến trầm cảm, như nỗi nhớ nhà (100%), khó khăn trong giao tiếp với cộng đồng người nước ngoài (94,11%), thức ngủ không theo nhịp ngày đêm và ăn uống thất thường (94,11%),  ít vận động (94,11%), khó thích nghi cuộc sống mới (76,47%),.. Nên các cháu cần chuẩn bị tâm lý tốt trước khi đi học, rèn khả năng tự lập, thích ứng với môi trường sống, sinh hoạt điều độ và kiểm soát tốt cảm xúc cũng như tăng cường vận động thể chất để giảm thiểu nguy cơ trầm cảm.

Ngoài ra yếu tố văn hóa của bố mẹ, như quá chiều chuộng (100%), yếu tố giáo dục chưa hợp lý (76,47%), yếu tố stress trong gia đình (70,59%),.. đã ảnh hưởng đến khả năng tự lập và thích nghi của trẻ, từ đó trẻ có nguy cơ dễ bị trầm cảm hơn. Vì vậy bố mẹ phải giáo dục con cái theo hướng phát huy tính tự lập, tránh chiều chuộng, không gây áp lực học tập cho con cái.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Kessler RC, Walters EE. Epidemiology of DSM-III-R major depression and minor depression among adolescents and young adults in the National Comorbidity Survey. Depression and Anxiety, the official journal of ADAA, 1998, Volume 7, Issue 1, Pages 1–52,
  2. Iwata N., Buka S. Race/ethnicity and depressive symptoms: a cross-cultural/ethnic comparison among university students in East Asia, North and South America. Handbook of Interventions that Work with Children and Adolescents, 2002,
  3. Karasz A. Cultural differences in conceptual models of depression. Soc. Sci. Med. 2005 Apr; 60(7):1625-35,
  4. Maureen Mayhew. How Culture Influences Health. Canadian Pediatric Society, 2016.
  5. Pierre Cochez. L’OMS s’inquiète d’une progression de la dépression dans le monde. Sciences & éthique, 2017.
  6. Vitor Pordeus. La maladie mentale serait-elle liée à la culture? Ici – Bas-Saint-Laurent, 2017.

TÓM TẮT

Tìm hiểu các yếu tố văn hóa liên quan đến trầm cảm trên nhóm sinh viên du học ở nước ngoài

Tỷ lệ mắc trầm cảm ở nhóm nghiên cứu trước khi đi học ở nước ngoài (17,65%) thấp hơn khi sang du học (82,35%). Mức độ trầm cảm ở nhóm này chủ yếu là nặng và không được điều trị ở nước ngoài (76,47%). Những yếu tố văn hóa của bản thân như nỗi nhớ nhà (100%), khó khăn trong giao tiếp với cộng đồng người nước ngoài (94,11%), thức ngủ và ăn uống thất thường (94,11%), ít vận động (94,11%), khó thích nghi cuộc sống mới (76,47%),.. ảnh hưởng rất lớn đến trầm cảm.  Ngoài ra, yếu tố văn hóa của bố mẹ, như quá chiều chuộng (100%), yếu tố giáo dục chưa hợp lý (76,47%), yếu tố stress trong gia đình (70,59%),.. đã ảnh hưởng đến khả năng tự lập và thích nghi của trẻ, từ đó trẻ có nguy cơ làm dễ bị trầm cảm hơn. Vì vậy cả bố mẹ và con cái cần chuẩn bị tâm lý tốt trước khi quyết định cho con đi học nước ngoài, bố mẹ phải giáo dục con cái theo hướng phát huy tính tự lập, tránh chiều chuộng và các con phải rèn khả năng tự lập, thích ứng với môi trường sống, tham gia các hoạt động tinh thần và thể chất điều độ để giảm thiểu nguy cơ bị trầm cảm.

Les facteurs culturels liés à la dépression sur le groupe d’étudiants étaient à l’étranger

La prévalence de la dépression chez les étudiants avant de partir à l’étranger (17,65%) était inférieure à celle des études à l’étranger (82,35%). Les niveaux de dépression dans ce groupe étaient principalement sévères et non traités (76,47%). Les facteurs culturels individuels tels que la nostalgie (100%), les difficultés de communication avec la communauté expatriée (94,11%), les habitudes de sommeil et d’alimentation irréguliers (94,11%), les comportements sédentaires (94,11%), difficulté à s’adapter à une nouvelle vie (76,47%),.. affectent grandement la dépression. En outre, les facteurs culturels des parents, comme la gâterie (100%), le facteur d’éducation n’est pas raisonnable (76,47%), le facteur de stress dans sa famille (70,59%),.. ont influencé la capacité des enfants à s’auto-adapter et à s’adapter, ce qui peut être le risque de rendre les enfants plus enclins à la dépression. Par conséquent, les parents et les enfants doivent préparer une bonne psychologie avant de décider d’envoyer leurs enfants à l’étranger, les parents doivent éduquer leurs enfants dans la direction de la promotion de l’autonomie, en évitant les spoilers et les enfants doivent développer l’autodétermination, s’adapter au milieu de vie, participer à la modération des activités mentales et physiques pour minimiser le risque de dépression.

Đề tài được thực hiện bởi

PGS.TS. Võ Văn Bản
BỆNH VIỆN VIỆT PHÁP HÀ NỘI

Bài viết Tìm hiểu các yếu tố văn hóa liên quan đến trầm cảm trên nhóm sinh viên du học ở nước ngoài đã xuất bản lần đầu vào ngày Hội Tâm lý Trị liệu Việt Nam.

]]>
616